Điện Biên: Hưởng lợi từ mô hình điều trị 2.0 cho người nhiễm HIV

19/04/2015 15:48

Ðiện Biên là một trong hai tỉnh trong cả nước được chọn làm thí điểm triển khai mô hình điều trị 2.0 cho người nhiễm HIV. Sau gần hai năm triển khai, mô hình này đã mang lại kết quả khả quan.

Giám đốc Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Ðiện Biên Hoàng Xuân Chiến cho biết: Mô hình điều trị 2.0 là phương pháp điều trị sớm giúp người bệnh tiếp cận ngay với việc điều trị bằng thuốc ARV (thuốc kháng vi-rút), qua đó, giảm được tỷ lệ tử vong và nguy cơ lây nhiễm HIV. Mô hình đã nhân rộng tại 32 xã, phường tại bốn huyện của tỉnh. Hiện nay, tình hình dịch HIV/AIDS trên địa bàn Ðiện Biên diễn biến phức tạp, 10/10 huyện, thị xã, thành phố với 107/130 xã, phường trong tỉnh có người nhiễm HIV/AIDS. Vì vậy, mô hình điều trị 2.0 nhằm mục đích mở rộng việc tiếp cận sớm với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV và điều trị ARV (kháng vi-rút) kết hợp với việc lồng ghép các dịch vụ có liên quan vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ở tuyến xã.

Theo mô hình điều trị này, các xét nghiệm HIV được thực hiện tại các trung tâm y tế huyện. Khi đã điều trị ổn định, người bệnh sẽ được theo dõi và nhận thuốc định kỳ tại trạm y tế xã gần nhất. Sáng kiến điều trị 2.0 cũng đã huy động được cộng đồng tham gia vào công tác phòng, chống HIV/AIDS. Người nhiễm HIV, tuyên truyền viên đồng đẳng, nhóm nghiện chích ma túy sẽ được tập huấn cùng với các nhân viên y tế thôn, bản. Về chăm sóc điều trị, thực hiện theo nguyên tắc điều trị sớm bằng thuốc ARV, không căn cứ kết quả xét nghiệm tế bào CD4 và điều trị mở rộng để dự phòng, cho nên đến tháng 10-2014, Ðiện Biên đã triển khai được 32/40 xã thuộc các huyện: Ðiện Biên, Tuần Giáo, Mường Ẳng, Ðiện Biên Ðông. Các phòng khám ngoại trú đã chuyển 314 bệnh nhân về tuyến xã để tiếp tục theo dõi, điều trị ARV. Nhiều bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt, không mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Kết quả, từ tháng 8/2011 đến tháng 10/2014, toàn tỉnh đã xét nghiệm sàng lọc cho 9.685 trường hợp (trong đó 950 trường hợp tiêm chích ma túy, 6.756 phụ nữ mang thai, còn lại là các đối tượng khác) và phát hiện 99 trường hợp dương tính với HIV (chiếm 1,02%).

Nhiều người bệnh nhiễm HIV được thực hiện theo mô hình điều trị 2.0 đã ổn định tinh thần, sức khỏe ngày càng khá hơn. Anh Lò Văn Phách, 36 tuổi (bản Ðắng, xã Mường Ðăng, huyện Mường Ẳng) chia sẻ: "Khi biết tin mình bị nhiễm HIV, tôi rất sốc và nghĩ rằng chỉ nay mai thôi sẽ chết. Nhưng tôi được các bác sĩ động viên và điều trị theo mô hình 2.0 nên tôi đã yên tâm và tuân thủ điều trị. Với mô hình điều trị 2.0, tôi đã được điều trị thuốc ARV ngay khi phát hiện bệnh, sức khỏe khá hơn nhiều. Thời gian đầu điều trị, mỗi lần ra trung tâm y tế huyện lấy thuốc, tôi phải đi 20 km. Nhưng cho đến thời điểm này, mô hình này được đưa về xã, tôi rất mừng vì không phải vất vả đi xa nữa, chỉ tập trung chữa bệnh".

PGS, TS Bùi Ðức Dương, Phó Cục trưởng Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, mô hình thí điểm 2.0 triển khai với năm nội dung: phân cấp và lồng ghép dịch vụ điều trị HIV xuống y tế xã; tư vấn xét nghiệm HIV và chăm sóc, điều trị HIV/AIDS tại tuyến xã, phường; chẩn đoán sớm bằng ba loại test nhanh; tối ưu hóa phác đồ điều trị; huy động sự tham gia của cộng đồng. Ðáng chú ý, mô hình điều trị 2.0 đã góp phần giảm đáng kể kinh phí đi lại và tiết kiệm được khá lớn nguồn nhân lực. Ðể điều trị HIV/AIDS, người bệnh thường phải uống nhiều loại thuốc/ lần và uống nhiều lần/ ngày, nhưng với phương pháp này người bệnh chỉ cần sử dụng một viên thuốc phối hợp có tác dụng tương trợ lẫn nhau, không ảnh hưởng tới các thuốc điều trị khác như thuốc chống lao... và thích hợp với cả người lớn, trẻ em, phụ nữ mang thai; giảm tỷ lệ tử vong, giảm khả năng lây nhiễm và góp phần tăng chất lượng sống cho người bệnh.

Tuy nhiên, cũng theo PGS,TS Bùi Ðức Dương, do là mô hình thí điểm, mới triển khai bước đầu cho nên không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Thí dụ, với những xã gần trung tâm huyện, lợi ích giảm chi phí đi lại chưa thật rõ nét. Nhiều người bệnh vẫn trực tiếp đến phòng khám nhận thuốc và điều trị thay vì nhận gián tiếp qua cán bộ trạm y tế. Người bệnh HIV thường đi làm ăn xa, hoặc rời khỏi địa bàn một thời gian mới quay trở lại nên việc điều trị bị gián đoạn và hiệu quả không cao. Mô hình mới triển khai cho nên chưa tạo được sự tin tưởng tuyệt đối của người bệnh. Hiểu biết về bệnh HIV/AIDS, về phương pháp điều trị 2.0 của một bộ phận người bệnh nhiễm HIV/AIDS còn hạn chế.

Top