Quyền con người trong phòng, chống HIV/AIDS

30/11/2015 17:00

Trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, Nhiều vấn đề quan trọng đã được đặt ra, thu hút sự quan tâm của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, nhân quyền. Trong đó, vấn đề quyền con người trở thành một trong những vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công cuộc phòng, chống AIDS trên phạm vi toàn cầu cũng như ở phạm vi từng quốc gia.

Ảnh minh họa
Chúng ta đều biết rằng sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là rào cản chính của công cuộc phòng chống HIV/AIDS. Sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS cũng chính là nhân tố làm ảnh hưởng đến việc thực hiện đầy đủ quyền con người mà nhân loại tiến bộ luôn luôn hướng đến.Trên phạm vi toàn cầu, từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều văn kiện quốc tế được ban hành chứa đựng những cam kết về HIV/AIDS trong đó đều đề cập việc xoá bỏ sự kỳ thị và phân biệt đối xử với những người sống chung với HIV/AIDS và những người có liên quan đến HIV/AIDS.

Chúng ta có thể điểm lại một số văn kiện tiêu biểu bao gồm: Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người (1996);  Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (2000), Tuyên bố cam kết về HIV/AIDS –“ Khủng hoảng toàn cầu, hành động toàn cầu” (2001)…Trong số các văn kiện này, các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người là văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề ra những mục tiêu cơ bản về bảo vệ quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS.

Có thể thấy rằng, các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người là văn kiện trực tiếp và cụ thể nhất về vấn đề quyền của những người sống chung với HIV/AIDS. Văn kiện này được thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con người do Cao uỷ Liên Hợp Quốc, Trung tâm Quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc đồng tổ chức ở Giơnevơ trong các ngày từ 23 đến 25/9/1996.

Mục đích của hướng dẫn này là để hỗ trợ các quốc gia trong việc vận dụng những quy phạm quốc tế về quyền con người vào hoạt động thực tiễn trong bối cảnh HIV/AIDS. Hướng dẫn gồm hai phần: Phần thứ nhất xác định những nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm nền tảng cho cách ứng xử tích cực trong bối cảnh HIV/AIDS; phần thứ hai đưa ra các biện pháp mang tính định hướng hành động mà các chính phủ cần thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, chính sách và thực tiễn quản lý hành chính nhằm bảo vệ các quyền con người và đạt được các mục tiêu về bảo vệ y tế công liên quan tới HIV/AIDS.

Hướng dẫn này không phải là một điều ước quốc tế nên không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý, tuy nhiên, các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người đặc biệt hữu ích cho các tổ chức quốc tế, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các chủ thể khác có liên quan tham gia vào quá trình phòng, chống đại dịch HIV/AIDS. Cũng như cho bản thân những người sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người và tự do cơ bản của họ. Trên thực tế, văn kiện này được coi là một cuốn cẩm nang cho các chủ thể quốc gia và quốc tế trong các hoạt động về HIV/AIDS nói chung, về quyền của những người sống chung với HIV/AIDS nói riêng. Nhiều văn bản luật của nhiều quốc gia đã dựa vào hướng dẫn này để đề ra các điều luật nhằm bảo vệ quyền con người trong ứng xử và giải quyết các vấn đề có liên quan đến HIV/AIDS.

Trong hệ thống các quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, có một số quyền có ý nghĩa quan trọng đối với những người sống chung với HIV/AIDS, các quyền ấy bao gồm: Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; quyền sống; quyền được hưởng chuẩn mực cao nhất có thể về sức khỏe thể chất và tinh thần; quyền được tự do và an toàn cá nhân; quyền tự do đi lại và cư trú; quyền được tìm kiếm và được cho lánh nạn; quyền được bảo vệ sự riêng tư; quyền được tự do bày tỏ chính kiến, diễn đạt và tự do nhận, trao đổi thông tin; quyền được tự do lập hội; quyền được kết hôn và lập gia đình; quyền bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục; quyền được có mức sống thích đáng; quyền được hưởng an sinh, trợ cấp và cứu trợ xã hội; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và công cộng của cộng đồng; quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm…

Theo Luật quốc tế về quyền con người, các quốc gia có thể quy định trong pháp luật những giới hạn áp dụng với một số quyền trong những hoàn cảnh HIV/AIDS cụ thể, nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với các quyền của những người sống chung với HIV/AIDS. Trên thực tế, bảo đảm sức khỏe của cộng đồng là lý do được các nhà nước viện dẫn nhiều nhất khi giới hạn các quyền của những người sống chung với HIV/AIDS.

Điều đáng nói là nguyên tắc kể trên đôi khi bị các quốc gia lạm dụng. Nhiều nước đã đưa ra những giới hạn quá mức về quyền của những người sống chung với HIV/AIDS, vi phạm nguyên tắc về không phân biệt đối xử với nhóm người này. Ví dụ, ở một số quốc gia đã ra những qui định ngăn cấm người nhiễm HIV nhập cư, lưu trú, kết hôn, loại trừ cơ hội về giáo dục, cơ hội có việc làm, chăm sóc sức khỏe, đi lại, an sinh xã hội, nhà ở và kể cả việc cho phép tị nạn. Ở nhiều nước việc đưa ra những qui định vi phạm đời tư khi cưỡng bức xét nghiệm và công khai tình trạng nhiễm HIV của một người; chia tách những người sống chung với HIV/AIDS khỏi những người bình thường… Những biện pháp như vậy là cần thiết với một số bệnh lây nhiễm nguy hiểm nhưng là không cần thiết và không phù hợp với những người sống chung với HIV/AIDS. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, HIV không lây nhiễm qua những con đường tiếp xúc thông thường.

Các hướng dẫn hành động cho quốc gia nhằm giúp các quốc gia thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS. Các hướng dẫn này gắn liền với các chuẩn mực quốc tế hiện hành về quyền con người và được đúc kết từ những kinh nghiệm thực tế thu thập được trong các hoạt động trên lĩnh vực này trong nhiều năm cụ thể như sau:

Về bộ máy tổ chức quốc gia điều hành công tác phòng chống HIV/AIDS: Nhà nước cần thiết lập một cơ cấu tổ chức quốc gia có đủ sức để tổ chức các hoạt động ứng phó với HIV/AIDS nhằm bảo đảm một sự tiếp cận liên ngành, lồng ghép nghĩa vụ về chính sách với chương trình liên quan đến HIV/AIDS trong hoạt động của toàn bộ các ban, ngành của chính phủ. Điều này có thể bao gồm việc thành lập một cơ quan liên bộ do chính phủ điều hành để quản lý chung hoạt động trên lĩnh vực này của tất cả các chủ thể có liên quan.

Về việc hỗ trợ các tổ chức dựa vào cộng đồng: Chính phủ cần bảo đảm để có sự tham vấn của các tổ chức dựa vào cộng đồng trong mọi giai đoạn xây dựng, lên kế hoạch, thực hiện và đánh giá các chính sách về HIV/AIDS. Cần bảo đảm rằng các tổ chức dựa vào cộng đồng được phép thực hiện một cách hiệu quả các hoạt động của họ, kể cả trong các lĩnh vực về đạo đức, pháp luật và quyền con người.

Về việc xây dựng và sửa đổi pháp luật  về y tế công, về hình sự, về chống phân biệt đối xử và bảo vệ: nhà nước cần xem xét và sửa đổi pháp luật về y tế công để bảo đảm những vấn đề về y tế công nảy sinh từ khía cạnh HIV/AIDS được chú trọng thỏa đáng, các quy định pháp luật áp dụng cho các bệnh lây truyền thông thường không áp dụng cho HIV/AIDS, và các quy định pháp luật đó là phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người.

Nhà nước cần rà soát và sửa đổi luật hình sự về HIV/AIDS. Hệ thống hình phạt để bảo đảm rằng chúng tương thích với các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người và không bị lạc hậu trong bối cảnh HIV/AIDS hoặc không hướng vào việc chống lại những nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Cụ thể, luật hình sự và những quy định về y tế công không nên bao gồm những tội phạm đặc biệt về hành vi cố ý lây truyền HIV hoặc những quy định cấm các hành vi tình dục (bao gồm ngoại tình, tình dục đồng giới nam, thông dâm và mua bán dâm) giữa những người đã thành niên. Luật cần cho phép hoặc hợp pháp hóa và thúc đẩy các chương trình trao đổi bơm kim tiêm; hủy bỏ các quy định hình sự hóa việc tàng trữ, cung cấp và phân phát bơm kim tiêm và bao cao su. 

Nhà nước cần ban hành hoặc củng cố luật về chống phân biệt đối xử và những luật khác để bảo vệ những người sồng chung và những người dễ bị tổn thương bởi HIV/AIDS. Điều này liên quan đến việc bảo đảm tính riêng tư, bảo mật và đạo đức trong nghiên cứu về HIV và trong xét nghiệm, điều trị những người nhiễm HIV. Thêm vào đó, cũng cần ban hành các quy tắc đạo đức trong việc tham gia các nghiên cứu liên quan đến HIV/AIDS nhằm bảo vệ một số nhóm dễ bị ảnh hưởng nhất trong bối cảnh người nhiễm HIV là phụ nữ, trẻ em, người có quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới….

Việc tiếp cận dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc, điều trị và phòng chống HIV/AIDS: nhà nước cần bảo đảm sự sẵn có và cơ hội tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ phòng chống HIV/AIDS an toàn, hiệu quả với chi phí phù hợp. Điều này bao gồm các loại thuốc chống tái phát bệnh, các biện pháp chuẩn đoán và các công nghệ liên quan tới việc chăm sóc mang tính dự phòng, chữa trị và giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS.

Để đảm bảo các dịch vụ hỗ trợ pháp lý, nhà nước cần cung cấp những dịch vụ pháp lý miễn phí nhằm giúp những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS biết về các quyền của họ và để tăng cường các quyền này. Trong vấn đề này cần tận dụng các cơ chế bảo vệ và hệ thống Tòa án, các cơ quan của Bộ Tư pháp, kiểm tra, giám sát Quốc hội, các ủy ban về quyền con người và những cơ quan tiếp nhận khiếu nại về y tế. Đồng thời, có thể gắn với những trung tâm trợ giúp pháp lý cộng đồng hoặc những dịch vụ pháp lý dựa trên mạng lưới các tổ chức hoạt động trên các lĩnh vực đạo đức, luật, quyền con người và dịch vụ HIV/AIDS. Cũng cần hỗ trợ các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền và xây dựng lòng tự tin, tự trọng cho những người sống chung với HIV/AIDS 

Để tạo môi trường trợ giúp và thuận lợi cho phụ nữ, trẻ em và các nhóm dễ bị tổn thương khác, nhà nước cần thực hiện điều này bằng cách phối hợp với cộng đồng và thông qua đối thoại với cộng đồng nhằm phê phán những định kiến tiềm ẩn và những hành vi hay những ứng xử bất bình đẳng, đồng thời tổ chức các dịch vụ y tế xã hội đặc biệt nhằm trợ giúp các nhóm dễ bị tổn thương này.

Để thay đổi thái độ phân biệt đối xử thông qua giáo dục, đào tạo và các phương tiện thông tin đại chúng, nhà nước cần đẩy mạnh việc tuyên truyền rộng rãi và liên tục các chương trình giáo dục, đào tạo và các chiến dịch thông tin đại chúng nhằm thay đổi thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS. 

Để phát triển những tiêu chuẩn ứng xử cho các khu vực tư nhân, công cộng và những cơ chế để thực hiện các tiêu chuẩn liên quan đến HIV/AIDS: nhà nước cần bảo đảm rằng Chính phủ và khu vực tư nhân sẽ xây dựng các bộ quy tắc ứng xử liên quan đến vấn đề HIV/AIDS trong đó đưa những nguyên tắc về quyền con người vào các bộ quy tắc về trách nhiệm và hoạt động chuyên môn cùng với những cơ chế để bảo đảm các quy tắc đó được thực thi.

Dựa trên những vấn đề về quyền con người liên quan đến HIV/AIDS do Liên Hợp Quốc đề xướng, chúng ta đã cam kết tăng cường mạnh mẽ nỗ lực quốc gia để tạo ra các khung pháp lý, xã hội và chính sách phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta.

Quốc hội và Chính phủ đã tổ chức thực hiện việc  xem xét, đánh giá lại pháp lệnh Phòng chống HIV/AIDS (1995) cũng như các bộ luật và chính sách không còn phù hợp với tình hình HIV/AIDS.  

Cho đến năm 2004 chúng ta đã ban hành hơn 80 văn bản qui phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công cuộc phòng, chống HIV/AIDS, đặt tiền đề quan trọng cho việc đảm bảo và thực hiện quyền con người đối với người nhiễm và những người có liên quan đến HIV/AIDS ở nước ta.

Từ năm 2004 đến năm 2006 chúng ta đã tạo bước đột phá về chính sách và luật pháp liên quan đến phòng chống HIV/AIDS. Chiến lược Quốc gia Phòng chống AIDS đến năm 2010, tầm nhìn 2020 đã đề ra các quan điểm, mục tiêu cơ bản và mục tiêu cụ thể cùng với hệ thống 9 chương trình hành động nhằm ngăn chặn sự lan nhiễm HIV/AIDS ở nước ta vào năm 2015. Cần nhấn mạnh rằng quan điểm thứ hai của chiến lược quốc gia đã nhấn mạnh đến việc không kỳ thị phân biệt đối xử đối với người nhiễm và những người liên quan đến HIV/AIDS.

Để tiếp tục lãnh đạo công tác Phòng chống AIDS trong thời kỳ mới, ngày 30 tháng 11 năm 2005 Ban Bí thư Trung ương Đảng, sau khi tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 52-1995/CTTW, đã ra chỉ thị 54-2005/CTTW đã đề ra quyết tâm không để HIV/AIDS phát triển thành đại dịch, chống kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS và nêu rõ việc "đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng, chống HIV/AIDS, tạo điều kiện để những người nhiễm HIV và gia đình họ thấy rõ trách nhiệm, tự giác tham gia tích cực các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, tiến tới thành lập các tổ chức xã hội phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam" .

Sau 10 năm thực hiện Pháp lệnh phòng chống HIV/AIDS, tháng 6 năm 1996, Tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khóa 11 đã thông qua luật phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS). Luật phòng chống HIV/AIDS là văn bản pháp luật mạnh mẽ khằng định nhà nước Việt Nam chống lại sự kỳ thị phân biệt đối xử đối với những người sống chúng với HIV/AIDS và những người có liên quan đến HIV/AIDS và thông qua các điều luật  khẳng định quyền con người được đảm bảo đầy đủ đối với những người nhiễm HIV và những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

Tại Điều 4 (Luật PC AIDS )đã xác định rõ “Quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV”. Người nhiễm HIV có các quyền sau đây: Sống hoà nhập với cộng đồng và xã hội; Được điều trị và chăm sóc sức khoẻ; Học văn hoá, học nghề, làm việc; Được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS; Từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS trong giai đoạn cuối ; Các quyền khác theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật có liên quan.

Luật cũng khẳng định: Người nhiễm HIV có quyền tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS; Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho người nhiễm HIV tham gia các hoạt động sau đây; Nhóm giáo dục đồng đẳng, câu lạc bộ và các hình thức tổ chức sinh hoạt khác của người nhiễm HIV theo quy định của pháp luật; Tuyên truyền và thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV; Hỗ trợ, chăm sóc người nhiễm HIV; Tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng chương trình, chính sách, pháp luật liên quan đến HIV/AIDS; Các hoạt động khác về phòng, chống HIV/AIDS.

Luật Phòng, chống HIV/AIDS và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam đã rất coi trọng vấn đề quyền con người, điều đó được thể hiện trong các quy định: nghiêm cấm việc tiết lộ tên tuổi địa chỉ, tình trạng nhiễm HIV/AIDS của một người khi chưa được sự đồng ý của người đó. Nghiêm cấm việc từ chối khám chữa bệnh hoặc tuyển dụng một người vào làm việc, học tập vì lý do người đó nhiễm HIV/AIDS…

Nhờ những quy định pháp luật đó cùng với các biện pháp tuyên truyền giáo dục đồng bộ, các biện pháp chăm sóc và điều trị đối với người nhiễm HIV, người nhiễm HIV khôi phục dần niềm tin vào xã hội và tự tin hơn trong cuộc sống hàng ngày. Hàng vạn người nhiễm HIV, người quan hệ tình dục đồng giới, người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nhập cuộc tham gia tích cực vào các nhóm “tự lực”, các nhóm “vì ngày mai tươi sáng”, các nhóm “giáo dục đồng đẳng”…. Nhiều nười nhiễm HIV trở thành những tấm gương tiêu biểu trong lao động sản xuất, trong hoạt động truyền thông phòng chống AIDS…

Để đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thực hiện quyền con người đối với những người nhiễm HIV/AIDS chúng ta cần phải: Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống HIV/AIDS nói chung và hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến việc đảm bảo quyền con người đối với những người nhiễm HIV/AIDS và những người liên quan đến HIV/AIDS.

Bên cạnh đó, chúng ta phải tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện các điều đã được pháp luật quy định có liên quan trong cộng đồng người nhiễm HIV/AIDS và trong cộng đồng dân cư, làm cho các quy định pháp luật đó trở thành hiện thực tạo tiền đề vững chắc đảm bảo thực hiện quyền con người đối với người nhiễm HIV/AIDS và những người có liên quan. Đồng thời, huy đông cộng đồng cùng với nhà nước đầu tư cho công cuộc phòng chống AIDS thắng lợi ở Việt nam hướng tới đạt được mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020 và chấm dứt đại dịch với mục tiêu “ba không”, không còn nhiễm HIV mới, không còn người chết do AIDS và không còn kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS vào năm 2030.

Top