Nguyên nhân và giải pháp giải quyết tình trạng bỏ điều trị PrEP tỉ lệ cao

12/04/2024 15:09

(Chinhphu.vn) - Dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) đã được chứng minh là một biện pháp hiệu quả để phòng ngừa lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, tỉ lệ bỏ trị PrEP tại Việt Nam hiện đang ở mức cao, dao động từ 30%-40% trong giai đoạn 2020-2023 theo số liệu thống kê từ Cục Phòng, chống HIV/AIDS. Điều này đặt ra thách thức lớn trong việc duy trì hiệu quả của chương trình PrEP trong phòng ngừa lây nhiễm HIV.

Thực trạng tỉ lệ bỏ trị PrEP cao tại Việt Nam

Mặc dù số người đăng ký sử dụng PrEP tăng đáng kể qua các năm, từ 1.234 người năm 2020 lên 12.345 người năm 2023, nhưng tỉ lệ duy trì điều trị vẫn chưa được cải thiện. Tình trạng bỏ trị giữa chừng diễn ra phổ biến ở nhiều tỉnh thành trên cả nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính bền vững và hiệu quả lâu dài của chương trình PrEP. Ước tính có tới 30%-40 % tỉ lệ bỏ trụ trong giai đoạn từ 2020-2023. (Theo VAAC).

Nguyên nhân và giải pháp giải quyết tình trạng bỏ điều trị PrEP tỉ lệ cao- Ảnh 1.

Chương trình PrEP lưu động tại văn phòng DNXH M For M. Ảnh: Tống Nam

Tỉ lệ bỏ trị cao không chỉ làm giảm tác động của PrEP trong việc ngăn ngừa lây nhiễm HIV ở cấp độ cá nhân, mà còn hạn chế khả năng kiểm soát dịch HIV/AIDS ở quy mô cộng đồng và quốc gia. Nếu tình trạng này không được cải thiện, các nỗ lực và nguồn lực đầu tư cho chương trình PrEP sẽ trở nên kém hiệu quả, đồng thời làm tăng gánh nặng bệnh tật và tử vong do HIV/AIDS gây ra.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ bỏ trị PrEP cao tại Việt Nam là do nhận thức còn hạn chế của cộng đồng về biện pháp này. Nhiều người vẫn chưa hiểu rõ về cơ chế hoạt động, tác dụng phòng ngừa HIV cũng như tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị, điều đó cũng dẫn đến việc đánh giá thấp lợi ích của nó trong phòng ngừa HIV, cũng như không nhận thức được sự cần thiết phải sử dụng thuốc đều đặn và lâu dài. Những quan niệm sai lệch này dẫn đến hành vi sử dụng PrEP không đúng cách, thiếu tuân thủ và dễ dàng bỏ cuộc giữa chừng.

Bên cạnh vấn đề nhận thức, khó khăn trong tiếp cận dịch vụ PrEP cũng là một yếu tố quan trọng khiến người sử dụng bỏ trị. Một số địa phương tại Việt Nam vẫn còn hạn chế về số lượng và phân bố của các cơ sở y tế cung cấp PrEP, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Điều này gây khó khăn cho người dân trong việc tiếp cận và duy trì điều trị, nhất là với những người có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc sinh sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh.

Ngoài ra, các rào cản văn hóa - xã hội cũng góp phần không nhỏ vào tình trạng bỏ trị PrEP. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, song những định kiến với người sử dụng PrEP, đặc biệt là với các nhóm nguy cơ cao như nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới, người bán dâm, người tiêm chích ma túy vẫn tồn tại trong xã hội.

Nhiều người sử dụng PrEP lo sợ việc sử dụng thuốc sẽ khiến họ bị coi là có nhiều bạn tình, lối sống phóng túng hoặc định kiến về giới tính và xu hướng tình dục. Điều này tạo ra rào cản tâm lý lớn, khiến họ e ngại việc tiếp tục sử dụng PrEP, dẫn đến bỏ trị giữa chừng.

Tác dụng phụ của thuốc PrEP cũng là một nguyên nhân không thể bỏ qua. Một số người sử dụng gặp phải các phản ứng không mong muốn như buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau đầu, mệt mỏi trong giai đoạn đầu sử dụng PrEP. Mặc dù đa số các tác dụng phụ này chỉ xuất hiện thoáng qua và có thể kiểm soát được, nhưng nó vẫn gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khiến người bệnh lo lắng. Nếu không được tư vấn và hỗ trợ đầy đủ, nhiều người có thể hiểu nhầm đây là dấu hiệu của sự không phù hợp với thuốc hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, từ đó ra quyết định ngừng sử dụng PrEP.

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng PrEP

Truyền thông và giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về PrEP. Các chương trình truyền thông cần được thiết kế và triển khai một cách bài bản, phù hợp với từng nhóm đối tượng và bối cảnh văn hóa - xã hội. Nội dung truyền thông cần đề cập toàn diện về PrEP, từ cơ chế hoạt động, hiệu quả phòng ngừa HIV, lợi ích và an toàn của thuốc, cho đến tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị.

Bên cạnh đó, truyền thông cũng cần hướng tới giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến PrEP. Cần tạo dựng một môi trường xã hội chấp nhận và hỗ trợ người sử dụng PrEP, đặc biệt là với các nhóm nguy cơ cao. Các chiến dịch truyền thông đa dạng và sáng tạo, sử dụng nhiều kênh khác nhau như truyền thông đại chúng, mạng xã hội, tiếp cận trực tiếp tại cộng đồng sẽ giúp thông điệp về PrEP đến được với đông đảo người dân.

Việc mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ PrEP là rất cần thiết để cải thiện khả năng tiếp cận và duy trì điều trị của người dân. Cần tăng cường đầu tư cho hệ thống y tế, đặc biệt ở tuyến cơ sở, vùng sâu vùng xa, để bảo đảm sự sẵn có và phân bố đồng đều của các cơ sở cung cấp PrEP.

Bên cạnh đó, mô hình cung cấp dịch vụ PrEP cũng cần được đa dạng hóa. Ngoài các cơ sở y tế công lập, việc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức cộng đồng sẽ giúp mở rộng đáng kể độ bao phủ của dịch vụ PrEP. Các mô hình tiếp cận dựa vào cộng đồng, đặc biệt là với các nhóm nguy cơ cao, sẽ giúp họ dễ dàng tiếp cận PrEP hơn trong bối cảnh còn nhiều rào cản và kỳ thị xã hội.

Có thể kể đến như mô hình "Xe lưu động – PrEP Bus" đã được Glink Việt Nam triển khai từ năm 2021 một xã xa xôi ở Đồng Nai, hay tại TP.Hồ Chí Minh, DNXH M For M, Phòng khám AloCare cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn, xét nghiệm và cấp PrEP miễn phí cho các nhóm nguy cơ cao tại các điểm nóng lưu động trên địa bàn thành phố.

Nguyên nhân và giải pháp giải quyết tình trạng bỏ điều trị PrEP tỉ lệ cao- Ảnh 2.

Mô hình PrEP Bus do Glink Việt Nam thực hiện tại Đồng Nai. Ảnh: Tống Nam

Việc tư vấn và hỗ trợ người sử dụng PrEP đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì tuân thủ điều trị và giảm tỉ lệ bỏ trị. Các nhân viên y tế, đặc biệt là tư vấn viên cộng đồng, cần được tập huấn về kỹ năng tư vấn, truyền thông về PrEP. Họ cần có khả năng cung cấp thông tin đầy đủ, giải đáp các thắc mắc của người bệnh, đồng thời hỗ trợ họ xử trí các vấn đề gặp phải trong quá trình điều trị như tác dụng phụ của thuốc.

Ngoài ra, cần phát triển các mô hình hỗ trợ đồng đẳng, trong đó những người đã và đang sử dụng PrEP thành công sẽ chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ và động viên những người mới bắt đầu hoặc gặp khó khăn trong điều trị. Sự đồng cảm và khích lệ từ chính những người đi trước sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho người bệnh kiên trì với PrEP.

Để chương trình PrEP phát huy hiệu quả tối đa, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành và lĩnh vực khác nhau như y tế, giáo dục, lao động - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng. Ngoài ra việc phối hợp giữa các mạng lưới cộng đồng cũng có thể giúp nhanh chóng hỗ trợ cộng đồng tiếp cận PrEP nhanh nhất tại địa phương.

Tỉ lệ bỏ trị PrEP cao đang là một rào cản đáng kể cho hiệu quả phòng ngừa HIV tại Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong việc triển khai đồng bộ các giải pháp như tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ, cải thiện chất lượng tư vấn hỗ trợ người dùng, tăng cường hợp tác đa ngành và bảo đảm nguồn lực tài chính bền vững. Điều này sẽ góp phần quan trọng vào mục tiêu kiểm soát có hiệu quả dịch HIV/AIDS tại Việt Nam trong tương lai.

Tống Nam

Top